THỨ SÁU 25/7/2025 11:18
Hỏi:
Kính gửi: Tổng cục Thuế Nội dung hỏi: Gia đình tôi thuộc Đối tượng hưởng chế độ miễn, giảm tiền sử dụng đất quy định tại Điều 103 Nghị định 131/2021/NĐ-CP Căn cứ: Khoản 6 Điều 19 Nghị định số 103/2024/NĐ-CP quy định: “Căn cứ vào hồ sơ, giấy tờ về đất đai do cơ quan quản lý nhà nước về đất đai chuyển sang theo quy định của pháp luật, cơ quan thuế tính số tiền sử dụng đất phải nộp và số tiền sử dụng đất được giảm. Việc giảm tiền sử dụng đất được thực hiện cùng với việc tính tiền sử dụng đất phải nộp theo quy định tại Điều 20 Nghị định này.” Khoản 8 Điều 19 Nghị định số 103/2024/NĐ-CP quy định thẩm quyền tính và quyết định số tiền sử dụng đất được giảm: a) Cục trưởng Cục Thuế xác định và ban hành quyết định giảm tiền sử dụng đất đối với tổ chức kinh tế, người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức có vốn đầu tư nước ngoài. b) Chi cục trưởng Chi cục Thuế, Chi cục Thuế khu vực xác định và ban hành quyết định giảm tiền sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân. Tuy nhiên, trong thực tế, cơ quan thuế cấp cơ sở vẫn yêu cầu thực hiện theo Thông tư số 80/2021/TT-BTC (ban hành trước Nghị định 103/2024) rằng phải có quyết định giảm tiền sử dụng đất của UBND thì cơ quan thuế mới thực hiện giảm. Vướng mắc: Quy định tại Nghị định 103/2024 đã nêu rõ thẩm quyền ban hành quyết định giảm tiền sử dụng đất thuộc về cơ quan thuế (Cục trưởng, Chi cục trưởng) tùy đối tượng, không quy định phải có quyết định của UBND. Trong khi đó Thông tư 80/2021/TT-BTC lại quy định theo hướng khác. Câu hỏi: Trong trường hợp quy định của Thông tư 80/2021/TT-BTC khác với quy định mới tại Nghị định 103/2024/NĐ-CP thì việc giảm tiền sử dụng đất thực hiện theo văn bản nào? Thẩm quyền ban hành quyết định giảm tiền sử dụng đất hiện nay có thuộc hoàn toàn về cơ quan thuế theo Nghị định 103/2024/NĐ-CP hay vẫn phải chờ quyết định của UBND?
29/10/2025
Trả lời:








Gửi phản hồi: