-
Căn cứ khoản 10, Điều 1, Thông tư số 26/2015/TT-BTC ngày 27/02/2015 của
Bộ Tài chính (đã được sửa đổi, bổ sung tại Điều 1 Thông tư số 173/2016/TT-BTC
ngày 28/10/2016) sửa đổi, bổ sung Điều 15, Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày
31/12/2013 của Bộ Tài chính quy định điều kiện khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu
vào như sau:
“1. Có hóa đơn
giá trị gia tăng hợp pháp của hàng hóa, dịch vụ mua vào hoặc chứng từ nộp thuế
giá trị gia tăng khâu nhập khẩu hoặc chứng từ nộp thuế GTGT thay cho phía nước
ngoài theo hướng dẫn của Bộ Tài chính áp dụng đối với các tổ chức nước ngoài
không có tư cách pháp nhân Việt Nam và cá nhân nước ngoài kinh doanh hoặc có
thu nhập phát sinh tại Việt Nam.
2. Có chứng từ
thanh toán không dùng tiền mặt đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào (bao gồm
cả hàng hóa nhập khẩu) từ hai mươi triệu đồng trở lên, trừ các trường hợp
giá trị hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu từng lần có giá trị dưới hai mươi triệu đồng,
hàng hóa, dịch vụ mua vào từng lần theo hóa đơn dưới hai mươi triệu đồng theo
giá đã có thuế GTGT và trường hợp cơ sở kinh doanh nhập khẩu hàng hóa là
quà biếu, quà tặng của tổ chức, cá nhân ở nước ngoài.
Chứng từ thanh toán
không dùng tiền mặt gồm chứng từ thanh toán qua ngân hàng và chứng từ thanh
toán không dùng tiền mặt khác hướng dẫn tại khoản 3 và khoản 4 Điều này.
3. Chứng
từ thanh toán qua ngân hàng được hiểu là có chứng từ chứng minh việc chuyển tiền
từ tài khoản của bên mua sang tài khoản của bên bán mở tại các tổ chức cung ứng
dịch vụ thanh toán theo các hình thức thanh toán phù hợp với quy định của pháp
luật hiện hành như séc, ủy nhiệm chi hoặc lệnh chi, ủy nhiệm thu, nhờ thu, thẻ
ngân hàng, thẻ tín dụng, sim điện thoại (ví điện tử) và các hình thức thanh
toán khác theo quy định (bao gồm cả trường hợp bên mua thanh toán từ tài khoản
của bên mua sang tài khoản bên bán mang tên chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc bên
mua thanh toán từ tài khoản của bên mua mang tên chủ doanh nghiệp tư nhân sang
tài khoản bên bán).
...
c) Đối với
hàng hoá, dịch vụ mua trả chậm, trả góp có giá trị hàng hoá, dịch vụ mua từ hai
mươi triệu đồng trở lên, cơ sở kinh doanh căn cứ vào hợp đồng mua hàng hoá, dịch
vụ bằng văn bản, hoá đơn giá trị gia tăng và chứng từ thanh toán qua ngân hàng
của hàng hoá, dịch vụ mua trả chậm, trả góp để kê khai, khấu trừ thuế giá trị
gia tăng đầu vào. Trường hợp chưa có chứng từ thanh toán qua ngân hàng do chưa
đến thời điểm thanh toán theo hợp đồng thì cơ sở kinh doanh vẫn được kê khai, khấu
trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào.
Trường hợp
khi thanh toán, cơ sở kinh doanh không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng thì
cơ sở kinh doanh phải kê khai, điều chỉnh giảm số thuế GTGT đã được khấu trừ đối
với phần giá trị hàng hóa, dịch vụ không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng
vào kỳ tính thuế phát sinh việc thanh toán bằng tiền mặt (kể cả trong trường hợp
cơ quan thuế và các cơ quan chức năng đã có quyết định thanh tra, kiểm tra kỳ
tính thuế có phát sinh thuế GTGT đã kê khai, khấu trừ). ...”.
Căn cứ vào các quy định nêu trên, Cục Thuế tỉnh
Bình Dương trả lời theo nguyên tắc như sau:
Trường
hợp Công ty mua hàng hóa để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh theo hình thức
trả chậm được quy định trong hợp đồng mua bán ký với khách hàng có giá trị trên
hai mươi triệu đồng, nếu Công ty chưa có chứng từ thanh toán qua ngân hàng do
chưa đến thời điểm thanh toán theo hợp đồng thì Công ty vẫn được kê khai, khấu
trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào của hàng hóa nêu trên.
Đến thời hạn thanh toán ghi trong hợp đồng Công ty vẫn chưa thanh toán cho khách hàng nên chưa có chứng từ thanh toán qua ngân hàng thì Công ty chưa phải điều
chỉnh giảm số thuế GTGT đã kê khai khấu trừ. Khi thanh toán thực tế, nếu Công ty không
có chứng từ thanh toán qua ngân hàng (thanh toán bằng tiền mặt) thì hóa đơn mua
vào đã kê khai không đủ điều kiện khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Công ty phải kê
khai, điều chỉnh giảm số thuế GTGT đã được khấu trừ tương ứng với phần giá trị
hàng hóa, dịch vụ không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng vào kỳ tính thuế
phát sinh việc thanh toán thực tế.
Việc lựa chọn hình thức gia hạn thời gian trả chậm theo hợp
đồng mua bán đã ký giữa hai bên không thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan
thuế. Đề nghị độc giả căn cứ hướng dẫn nêu trên, đối
chiếu với tình hình sản suất kinh doanh thực tế tại đơn vị để thực hiện theo
đúng quy định.
Trên đây là ý kiến của Cục
Thuế tỉnh Bình Dương trả lời cho độc giả biết để thực hiện./.