Hỏi đáp CSTC

Hỏi:
Kính gửi: Cục quản lý, giám sát bảo hiểm Tên Tôi là: Nguyễn Văn Nam - sinh năm: 1990. Địa chỉ: Xóm 17, Xuân Giang, Xuân Trường, Nam Định SĐT: 0913.723.067 Liên quan đến một số quy định tại Nghị định 67/2023 về bảo hiểm TNDSBB của chủ xe cơ giới chưa rõ, dẫn đến ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ xe tham gia bảo hiểm cụ thể như sau: Tại điều 2 của nghị định quy định đối tượng áp dụng tại mục 1 đã nêu rõ “Chủ xe cơ giới tham gia giao thông, hoạt động trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới” như vậy ngoài các xe khác thì xe tập lái chủ xe vẫn phải mua bảo hiểm TNDS BB. Theo điều 8 quy định về mức phí bảo hiểm tại múc VII có quy định rất rõ về cách tính phí bảo hiểm xe tập lái. Nhưng theo Điều 7. Phạm vi bảo hiểm và loại trừ trách nhiệm bảo hiểm trong đó có điểm loại trừ “ Người lái xe không đủ điều kiện về độ tuổi theo quy định của Luật Giao thông đường bộ; người lái xe không có Giấy phép lái xe hoặc sử dụng Giấy phép lái xe không hợp lệ theo quy định của pháp luật về đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe cơ giới đường bộ, Giấy phép lái xe bị tẩy xóa hoặc sử dụng Giấy phép lái xe hết hạn sử dụng tại thời điểm xảy ra tai nạn hoặc sử dụng Giấy phép lái xe không phù hợp đối với xe cơ giới bắt buộc phải có Giấy phép lái xe. Trường hợp người lái xe bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe có thời hạn hoặc bị thu hồi Giấy phép lái xe thì được coi là không có Giấy phép lái xe”, điểm này đang áp dụng cho tất cả các loại xe trong đó có xe tập lái “đã thực hiện đúng quy định của luật giao thông đường bộ về xe tập lái “nghĩa là lái xe chưa có GPLX đang chờ thi sát hạch để cấp giấy phép lái xe cũng thuộc điểm loại trừ quyền lợi bảo hiểm là rất vô lý. Kính đề nghị Cục giám sát bảo hiểm làm rõ đối với xe tập lái đã tham gia bảo hiểm TNDSBB phát sinh quyền lợi bảo hiểm có bị áp dụng điểm loại trừ trên hay không?
23/06/2025
Trả lời:

Trả lời Câu hỏi số 090625-1 của độc giả Nguyễn Văn Nam về quy định về TNDS bắt buộc của chủ xe cơ giới tại Nghị định số 67/2023/NĐ-CP, Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm (QLBH) có ý kiến như sau:

          Khoản 5 Điều 56 Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ 2024 quy định: Người tập lái xe ô tô, người dự sát hạch lái xe ô tô khi tham gia giao thông đường bộ phải thực hành trên xe tập lái, xe sát hạch trên tuyến đường tập lái, tuyến đường sát hạch, có giáo viên dạy lái hoặc sát hạch viên bảo trợ tay lái...”

          Khoản 5 Điều 15 Nghị định số 160/2024/NĐ-CP quy định về xe tập lái: “a) Cơ sở đào tạo phải có xe tập lái của các hạng được phép đào tạo, thuộc quyền sử dụng hợp pháp của cơ sở đào tạo lái xe; được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép xe tập lái; trường hợp cơ sở đào tạo có dịch vụ sát hạch lái xe, căn cứ thời gian sử dụng xe sát hạch vào mục đích sát hạch, được phép sử dụng xe sát hạch để vừa thực hiện sát hạch lái xe, vừa đào tạo lái xe nhưng phải bảo đảm số lượng xe sát hạch dùng để tính lưu lượng đào tạo không quá 50% số xe sát hạch sử dụng để dạy thực hành lái xe; d) Xe tập lái được gắn 02 biển “TẬP LÁI” trước và sau xe theo mẫu quy định tại Phụ lục I kèm theo Nghị định này; có hệ thống phanh phụ được lắp đặt bảo đảm hiệu quả phanh, được bố trí bên ghế ngồi của giáo viên dạy thực hành lái xe; xe tập lái trên đường giao thông có thiết bị giám sát thời gian và quãng đường học thực hành lái xe của học viên; xe tập lái loại ô tô tải thùng có mui che mưa, che nắng, ghế ngồi cho học viên; có giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ còn hiệu lực;”

Khoản 1 Điều 601 Bộ luật Dân sự 2015 quy định “1. Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.”

Khoản 2 Điều 601 Bộ luật Dân sự 2015 về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra: “2. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”

          Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 67/2023/NĐ-CP quy định đối tượng áp dụng bao gồm “Chủ xe cơ giới tham gia giao thông, hoạt động trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.”.

          Điểm c khoản 2 Điều 7 Nghị định số 67/2023/NĐ-CP quy định trường hợp loại trừ bảo hiểm bao gồm Người lái xe không đủ điều kiện về độ tuổi theo quy định của Luật Giao thông đường bộ; người lái xe không có Giấy phép lái xe hoặc sử dụng Giấy phép lái xe không hợp lệ theo quy định của pháp luật về đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe cơ giới đường bộ, Giấy phép lái xe bị tẩy xóa hoặc sử dụng Giấy phép lái xe hết hạn sử dụng tại thời điểm xảy ra tai nạn hoặc sử dụng Giấy phép lái xe không phù hợp đối với xe cơ giới bắt buộc phải có Giấy phép lái xe. Trường hợp người lái xe bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe có thời hạn hoặc bị thu hồi Giấy phép lái xe thì được coi là không có Giấy phép lái xe.”.

          Đề nghị độc giả căn cứ quy định pháp luật nêu trên để tham khảo, phân biệt rõ giữa người không có giấy phép lái xe và người học lái xe, thực hiện theo đúng quy định pháp luật.

          Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm, Bộ Tài chính xin thông tin tới độc giả Nguyễn Văn Nam./.

Gửi phản hồi: