Hỏi:
Trả lời:
Căn cứ Khoản 3 Điều 2 Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài chính, hướng dẫn thi hành Luật Thuế TNCN và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế TNCN, quy định:
“Thu nhập từ đầu tư vốn là khoản thu nhập cá nhân nhận được dưới các hình thức:
a) Tiền lãi cho vay;
b) Lợi tức cổ phần;
c) Thu nhập từ đầu tư vốn dưới các hình thức khác, bao gồm: thu nhập từ trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu, thu nhập từ lãi trả chậm, lãi trả góp và các khoản thu nhập khác có tính chất tương tự.”
Căn cứ Khoản 1 Điều 10 Thông tư số 111/2013/TT-BTC quy định thu nhập từ đầu tư vốn chịu thuế theo thuế suất 5% trên thu nhập.
Căn cứ Khoản 1 Điều 25 Thông tư số 111/2013/TT-BTC quy định:
“Tổ chức, cá nhân trả thu nhập có trách nhiệm khấu trừ thuế trước khi trả thu nhập cho cá nhân.”
Căn cứ Điểm b Khoản 3 Điều 3 Thông tư số 25/2018/TT-BTC ngày 16/3/2018 (sửa đổi, bổ sung Thông tư 111/2013/TT-BTC) tiếp tục khẳng định:
“Các khoản lãi, bao gồm cả lãi trả chậm, lãi trả góp phát sinh từ hợp đồng vay, hợp đồng mua trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu, … đều thuộc diện thu nhập từ đầu tư vốn và chịu thuế TNCN theo thuế suất 5%.”
1. Đối với khoản tiền lãi trái phiếu thông thường đến hạn chưa thanh toán:
Đây là thu nhập từ đầu tư vốn của cá nhân nắm giữ trái phiếu. Khi Công ty thực hiện chi trả lãi cho trái chủ, Công ty có trách nhiệm khấu trừ thuế TNCN 5% trên tổng số tiền lãi chi trả trước khi thanh toán cho cá nhân.
2. Đối với khoản tiền lãi trên nợ gốc trái phiếu chưa thanh toán (tiền lãi phát sinh do chậm thanh toán gốc):
Khoản thu nhập này cũng có bản chất là lãi từ đầu tư vốn, được trả thêm do Công ty chậm hoàn trả khoản đầu tư (trái phiếu). Theo hướng dẫn tại Thông tư 111/2013/TT-BTC, đây là lãi trả chậm, lãi trả góp có tính chất thu nhập từ đầu tư vốn, do đó thuộc diện chịu thuế TNCN 5%, và Công ty phải khấu trừ thuế TNCN khi chi trả.
3. Đối với khoản tiền lãi chậm trả do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc phạt chậm thanh toán:
Trường hợp hợp đồng mua bán trái phiếu không quy định cụ thể về khoản phạt vi phạm hoặc lãi bổ sung, và việc chi trả thêm lãi được xác định là lãi bổ sung do chậm thanh toán nghĩa vụ trái phiếu, thì khoản tiền này vẫn được xem là thu nhập từ đầu tư vốn (do gắn với việc nắm giữ và hưởng lãi trái phiếu), nên chịu thuế TNCN 5%.
Nếu khoản chi trả thêm mang tính bồi thường thiệt hại dân sự hoặc phạt vi phạm hợp đồng, không mang tính chất đầu tư vốn, thì không thuộc đối tượng chịu thuế TNCN. Công ty căn cứ hợp đồng trái phiếu và chứng từ chi trả thực tế để xác định bản chất khoản tiền này.
Thuế Thành phố Hồ Chí Minh trích dẫn các căn cứ pháp lý để Ông (Bà) Trần Tuấn Chinh biết và căn cứ nội dung hợp đồng, hồ sơ chứng từ chi trả thực tế để xác định đúng bản chất khoản thu nhập và thực hiện khấu trừ, kê khai, nộp thuế theo quy định./.
